Lời dạy này
đã nói lên triết lý của Đạo Phật, cũng nói lên sự khác biệt giữa Phật giáo và
những loại hình tôn giáo khác, đó là: Mọi...
"Chỉ có
ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm. Chỉ có ta tránh điều tội lỗi,
chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có thể
làm cho người khác trở nên trong sạch".
Lời dạy này
đã nói lên triết lý của Đạo Phật, cũng nói lên sự khác biệt giữa Phật giáo và
những loại hình tôn giáo khác, đó là: Mọi sự đều bắt nguồn từ chính bản thân mình.
Trong Phật
Giáo không có Thần Linh vạn năng, bắt buộc tín đồ phải sợ hãi cúi đầu vâng lệnh.
Đức Phật không khi nào và không thể nào ban bố những ân huệ cho người cầu nguyện.
Người Phật tử phải nhận lãnh trách nhiệm, cố gắng trau dồi đức hạnh, kiên trì
tu tập để tự thanh lọc và giải thoát. Nói cách khác, người Phật tử không lệ thuộc
người khác mà phải nương nhờ nơi mình, tự mình cố gắng.
Đó cũng là
bài học mà Đức Phật đã rút ra từ hành trình giác ngộ của mình.
Cuộc sống
trong hoàng cung
Vào khoảng thế
kỷ 6-5 trước Công nguyên tại vùng Lumbini, gần biên giới giữa Nepal và Ấn Độ
ngày nay, Đức Phật - hay lúc này vẫn được biết đến với tên gọi Tất Đạt Đa đã ra
đời. Người là con trai của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Vua Tịnh Phạn là vị
vua của dòng dõi Thích-ca, một trong những gia tộc quyền lực ở vùng Ca Tỳ La Vệ,
ngày nay là miền đông Nepal.
Tương truyền,
trước khi sinh hạ hoàng tử, hoàng hậu Maya đã mộng thấy một con voi trắng sáu
ngà từ trên trời đi xuống. Trên không vang lên tiếng nhã nhạc và ca hát chúc tụng.
Da của voi trắng như tuyết trên đỉnh núi và vòi của nó quấn một đóa sen hồng.
Con voi tới gần bà, đưa đóa hoa chạm vào người bà, rồi đi vào trong bà.
Giấc mộng của
hoàng hậu Maya
Tỉnh giấc,
hoàng hậu tìm nhà vua, kể lại với ngài về giấc mộng. Sáng hôm ấy, vua vời những
đạo sĩ và những thầy bà la môn nổi tiếng ở kinh đô vào cung để nhờ đoán mộng.
Sau khi nghe kể, các vị đều nói rằng hoàng hậu sẽ hạ sinh một hoàng tử. Đặc biệt,
thái tử sau này sẽ trở thành một vĩ nhân, hoặc một nhà lãnh đạo cho cả cõi người
và cõi trời. “Cõi đất của chúng ta, tâu bệ hạ, đã chờ đợi từ lâu rồi một người
như thái tử!”
Mùa xuân năm
sau, đúng vào ngày trăng tròn tháng tư, hoàng hậu hạ sinh thái tử trên đường từ
Ca Tỳ La Vệ về vương quốc Câu-lợi quê hương bà.
Tục lệ của Ấn
Độ lúc bấy giờ là người con gái có chồng phải về sinh con tại nhà cha mẹ. Trên
đường đi, hoàng hậu đã ghé vào nghỉ tại vườn Lâm Tỳ Ni. Trong vườn muôn hoa
đang nở rộ, chim chóc đang ca hát vang lừng. Thấy một cây hoa Vô Ưu nở rực đầy
cành, bà bước tới. Khi tới gần cây, bà thấy hơi lảo đảo, vội đưa tay nắm chặt một
cành cây Vô Ưu. Một giây sau đó, bà sinh em bé. Thái tử được các thị nữ nâng
lên và bọc lại trong một tấm khăn choàng bằng lụa màu vàng, quay trở về Ca Tỳ
La Vệ.
Được tin, vua
Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết, đặt tên cho thái tử là Tất Đạt Đa - nghĩa là người
đem đến điều tốt lành. Nhà vua cũng truyền mời các thầy tướng giỏi đến coi số
cho thái tử.
Trong đó, đặc
biệt có một đạo sĩ bà la môn tên là A tư đà. Gặp thái tử, A tư đà đã khóc nấc
lên mà bảo rằng: “Tôi biết thái tử sau này sẽ thành một bậc vĩ nhân, thấu suốt
được mọi lẽ huyền vi trong vũ trụ. Thái tử sẽ không làm vua đâu: thái tử sẽ làm
một vị đạo sĩ lấy trời đất làm quê hương, lấy muôn loài làm thân tộc. Tôi khóc
là vì tôi sẽ chết trong nay mai, và chẳng có diễm phúc được nghe tiếng nói chân
thốt ra từ miệng Người. Bệ hạ có phúc lớn lắm, nước nhà có phúc lớn lắm mới có
được thái tử.”
Cuộc viếng
thăm này làm nhà vua rất bâng khuâng. Vua Tịnh Phạn muốn Tất Đạt Đa sẽ trở
thành người kế nghiệp, mở mang bờ cõi thay vì làm một đạo sĩ. Điều này đã ảnh
hưởng đến cách nhà vua nuôi dạy thái tử sau này.
Sau khi sinh
Tất Đạt Đa được tám ngày thì Hoàng hậu Maya qua đời. Cả nước thương tiếc bà.
Vua Tịnh Phạm đưa em ruột của bà là bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề vào cung, lên ngôi
hoàng hậu, tiếp tục chăm sóc Tất Đạt Đa.
Năm Tất Đạt
Đa 9 tuổi, vua cha cho cậu tham gia lễ cày ruộng đầu năm. Tại đây, thái tử thấy
cảnh người nông dân làm việc trên đồng, con trâu nặng nhọc kéo cày, những con
giun từ dưới đất chui lên bị lưỡi cày xắn làm hai khúc,.... Bị ấn tượng bởi cảnh
này, thái tử rời khỏi buổi lễ để đến dưới tàn cây hồng táo, ngồi thiền chiêm
nghiệm về những gì đã thấy. Người ngồi thẳng với tư thế uy nghiêm, như một bức
tượng nhỏ dưới gốc cây.
Nhìn thấy cảnh
này, vua Tịnh Phạm lo ngại, nếu con mình mới chín tuổi đã biết ngồi trầm tư như
thế thì lời tiên tri của A Tư Đà sẽ thành sự thật.
Mong muốn con
mình không xuất gia trở thành đạo sĩ, khi Tất Đạt Đa đến tuổi trưởng thành, nhà
vua đã tổ chức yến tiệc để kén vợ cho thái tử. Tại đây, Tất Đạt Đa đã gặp gỡ và
yêu mến Da Du Đà La - con gái của vua Dandapani nước lân cận. Đám cưới được tổ
chức vào năm thái tử 24 tuổi.
Đám cưới của
Tất Đạt Đa và Da Du Đà La
Nhà vua mong
muốn con trai của mình sẽ không có ý lìa bỏ vương quốc, nên ông đã ra lệnh cho
xây ba cung điện tuyệt đẹp cho đôi vợ chồng mới cưới ở.
“Ta muốn xây
một cung điện mùa hè làm bằng cẩm thạch mát rượi và bao quanh là những ao hồ,
những suối nước mát. Cái thứ hai là cung điện mùa Đông, ấm áp và thoải mái. Cái
thứ ba sẽ dùng cho mùa mưa. Vị trí của các cung điện này sẽ ở giữa một công
viên lớn, với cảnh đẹp nhìn từ mọi mặt. Một bức tường cao lớn xây bao quanh
công viên để những thứ phiền toái ở bên ngoài không thể xâm nhập được. Mọi thứ
đều phải tốt đẹp hoàn hảo để Tất đạt đa không bị bất cứ yếu tố nào tác động được”.
Nhà vua mời
những dàn nhạc tài nghệ trong nước đến biểu diễn suốt ngày đêm, để tất cả người
phục vụ đều là những cô gái trẻ đẹp giỏi khiêu vũ, các món ăn được thay đổi
liên tục. Quan trọng nhất, không ai được phép vào trong cung điện làm xáo trộn
tâm trí thái tử, gợi cho thái tử ý niệm từ bỏ cung điện.
Đã nhiều năm
qua, thái tử Tất Đạt Đa sống trong cảnh thiên đường ấy. Từ sáng tới tối người
được tiêu khiển bằng hàng ngàn thứ khác nhau, bao quanh bởi những người, những
vật đều xinh đẹp, nghe những âm thanh êm dịu ngọt ngào. Nếu có một người nữ hầu
bị bệnh, cô ta sẽ lập tức được đưa đi chỗ khác cho đến khi nào lành bệnh mới được
trở lại. Ngay cả một cây hoa trong vườn nếu bắt đầu héo rũ, người làm vườn lập
tức phải nhổ bỏ đem đi nơi khác. Với những biện pháp này, nhà vua muốn thái tử
không biết gì về những nỗi đau khổ và những điều bất hạnh trong cuộc sống hiện
thực.
Sau khi có
con trai đầu lòng vào năm 29 tuổi, Tất Đạt Đa ngỏ lời với vua cha muốn được ra
khỏi thành du ngoạn, để nhìn thấy thế giới bên ngoài cung điện. Nhà vua đồng ý
vì cho rằng đây là thời điểm thích hợp để thái tử nhìn rõ cuộc sống thực tế, trở
thành người cai trị cho vương quốc.
Tất Đạt Đa có
bốn chuyến thăm ra khỏi kinh thành. Trước mọi chuyến thăm, nhà vua Tịnh Phạm đều
ra lệnh người dân phải trang hoàng nhà cửa, đường phố, đem theo quan lại giám
sát vi hành cùng thái tử, để đảm bảo Tất Đạt Đa không gặp phải hay bị sầu muộn
bởi bất cứ vấn đề gì.
Nhưng ở chuyến
thăm đầu tiên, Tất Đạt Đa thấy một người đàn ông lớn tuổi, da mặt ông nhăn nheo
và tái nhợt. Xa Nặc - người hầu cận thân thiết của thái tử đã chỉ cho người biết
rằng bất cứ ai rồi cũng già đi, sức khỏe cũng giảm sút, thân thể khom dần,
gương mặt trở nên héo tàn,... Tất cả mọi người đều phải trải qua tuổi già.
Đến chuyến viếng
thăm thứ hai, thái tử lại thấy một người đàn ông kia đang ho dữ dội, run cả
thân thể và rên rỉ thảm thương. Xa Nặc lại giải thích với thái tử rằng người ấy
đang bị bệnh, rằng bệnh tật không chừa bất cứ ai, dù một người có khỏe đến đâu.
Qua chuyến viếng
thăm thứ ba, nhà vua thậm chí còn cử những quan lại, nhạc công và người hầu hộ
tống thái tử. Nhưng, thái tử lại nhìn thấy một cảnh tượng đau buồn khác - một
nhóm người đang mai táng cho một người chết.
Xa Nặc cho
thái tử hiểu rằng cái chết là điều không thể tránh khỏi. Một người lớn lên trải
qua bao nhiêu vui buồn hỷ nộ ái ố rồi cũng sẽ không tránh khỏi già đi, ốm đau bệnh
tật và cuối cùng là cái chết.
Sinh - Lão -
Bệnh - Tử: Những điều này bất cứ ai cũng phải trải qua. Phát hiện này làm cho Tất
Đạt Đa vô cùng buồn bã và băn khoăn. Nếu những đau khổ này đều không thể tránh
được, dù sớm hay muộn, thì làm sao thái tử có thể tận hưởng niềm vui lạc thú
như trước đây, khi biết rằng chúng rồi cũng sẽ biến mất. Đây cũng là lúc người
khao khát tìm ra con đường giải thoát khỏi khổ đau.
Đến chuyến vi
hành thứ tư, thái tử gặp một người xuất gia tu hành đang đi khất thực. Thái tử
tiến đến và hỏi người ấy lý do tu hành. Người đạo sĩ đã trả lời rằng mình nhận
thức được sự vô thường, nên không muốn đắm chìm trong dục lạc, mà muốn thoát khỏi
những ràng buộc để được tự do. “Vì muốn thoát khỏi nỗi khổ sinh - lão - bệnh -
tử, muốn hy sinh thân mình để tìm ra chân lý cứu độ chúng sinh thoát khỏi vô
minh đau khổ, nên tôi phát nguyện xuất gia tìm đạo. Mục đích duy nhất của tôi
hiện nay là tìm cho ra hạnh phúc hoàn hảo nhất và cao thượng nhất.”
Nghe xong những
lời này, thái tử nhận ra đây chính là con đường dành cho mình.
Khi thưa lại
ý định này với vua cha, vua Phạm Thịnh đã tức giận bảo rằng thái tử phải ở lại
để cai trị vương quốc. Nhưng Tất đạt Đa đã tâu lại rằng:
“Con sẽ ở lại
nếu cha hứa với con bốn điều sau đây: làm sao cho con trẻ mãi không già, làm
sao cho con khỏe mãi không bệnh, làm sao cho con sống mãi không chết và làm sao
cho con hết khổ đau. Nếu như cha không hứa giúp được con những điều này thì con
phải ra đi tìm câu trả lời”.
Nhà vua lúng
túng, cố gắng gạt đi những câu hỏi này, nhưng thái tử vẫn kiên quyết: “Thưa
cha, nếu cha không thể cứu con thoát khỏi những nỗi lo già, bệnh, chết và khổ
đau, thì xin cha cho con đi để con tìm đường tự cứu lấy mình. Không nên giữ con
như một tù nhân ở đây”.
Mặc cho sự phản
đối của vua cha, tối đấy thái tử thầm tạm biệt người vợ và con trai, cùng với
Xa Nặc và con ngựa Kiền Trắc rời khỏi cung thành.
Rời khỏi cung
điện, đi tìm con đường giải thoát
5 năm tầm đạo
Sáng sớm hôm ấy,
Tất Đạt Đa rời khỏi cung với người hầu cận Xa Nặc. Qua khỏi con sông Anoma, hai
người chia tay. Thái tử cắt tóc của mình, trao lại tóc, kiếm và tràng ngọc cho
Xa Nặc để đem lại về cung.
Sau đó, Tất Đạt
Đa vào rừng, đổi áo choàng với một người thợ săn để lấy chiếc áo sa môn. Giờ
đây, thái tử thấy mình đã thật sự trở thành một người xuất gia. Người ngồi thiền
tọa dưới một gốc cây, đến tận khi nắng lên cao.
Hành trình tầm
đạo của người bắt đầu từ đấy. Trong 5 năm tu học, Tất đạt đa đã tới thụ giáo với
hai đạo sư danh tiếng nhất thời bấy giờ là A-la-la Ca-lam và Uất-đầu-lam-phất.
Cả hai đều chứng được những cấp thiền định cao nhất thời bấy giờ, A-la-la
Ca-lam chứng được cấp thiền Vô sở hữu xứ - trạng thái nhận thấy không có một hiện
tượng nào thật sự hiện hữu như tri giác của ta tưởng, còn Uất-đầu-lam-phất thì
chứng được cấp thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ - trạng thái không còn tri
giác.
Đầu tiên, Tất
Đạt Đa đến đạo tràng của đạo sư A-la-la Ca-lam để thụ giáo. Tới đây, người được chỉ dẫn về việc khất thực, học cách ôm
bát, học cách đi, cách đứng, cách nhận thức cúng dường và cách chú nguyện để cảm
tạ người thí chủ.
Sau đó, Tất Đạt
Đa được đạo sư chỉ dạy về cách thở và sự tập trung tâm ý. Đạo sư chỉ dẫn về những
trạng thái thiền định, mà muốn thực hiện cho được những trạng thái đó thì phải
“bỏ hết những vọng tưởng về quá khứ, về tương lai và chỉ nhắm về hướng giải
thoát mà thôi”. Tất Đạt Đa thực tập rất chuyên cần. Cứ năm bảy hôm, người lại
trở về với đạo sư A-la-la Ca-lam để thỉnh giáo về những chỗ còn kẹt. Tu như vậy
trong ít lâu, người đạt được nhiều tiến bộ đáng kể.
Theo đó, Tất
Đạt Đa ban đầu theo dõi hơi thở, rồi bám sát, dính chặt vào hơi thở một cách
liên tục, không gián đoạn. Dần dần, hơi thở của người càng lúc càng nhẹ nhàng,
chỉ còn như làn khí mỏng manh tới lui. Kiên định theo dõi làn khí ấy thì thấy
nó càng lúc càng trong và sáng ra. Cứ chú mục mãi vào cái trong và cái sáng ấy
thì lát sau, cảm nhận về thế giới bên ngoài cũng dần biết mất, cái “tướng sáng”
của hơi thở càng lúc càng trong. An trú tâm vào cái tướng sáng trong ấy, Tất Đạt
Đa cảm nhận niềm an lạc, hạnh phúc chưa từng có trong đời. Tuy nhiên trong niềm
an lạc này, người vẫn thấy có bóng dáng và mầm mống của những suy tư.
Mấy tuần sau,
trong một trạng thái thiền định cao hơn, Tất Đạt Đa loại trừ được các mầm mống
của suy tư, rồi người đi vào được một trạng thái trung tâm ý trong đó ý niệm về
an lạc và không an lạc cũng không còn. Trong trạng thái tập trung đó, năm cánh
giác quan dường như cũng đã hoàn toàn đóng lại.
Sau khi đạt
được thành tựu này, đạo sĩ A-la-la Ca-lam dạy tiếp cho Tất Đạt Đa về phương
pháp thực hiện một trạng thái thiền định gọi là “không vô biên xứ”, trong đó
tâm của người tu hành được đồng nhất với không gian vô tận. Trong không gian ấy
mọi hiện tượng vật chất và mọi hình sắc đều tan biến.
Đạo sĩ chỉ
cho Tất Đạt Đa hãy từ bỏ hơi thở, chỉ chú tâm vào cái “tướng sáng” đã nhận ra
ban đầu. Chỉ tập trung vào đấy, đến khi mọi vật chất, mọi hình sắc đều tan biến,
chỉ còn lại hư không rộng lớn, mênh mông, vô biên.
Trong chưa đầy
ba hôm sau, Tất Đạt Đa đã đến đến “hư không vô biên”, trong đó mọi cảm giác, mọi
ý niệm về khổ và lạc cũng tan biến. Càng chú tâm vào đấy thì cả nội tâm và thế
giới bên ngoài cũng biến mất, không còn cái tôi hay mong muốn sở hữu, kiểm soát
nữa, tất cả chìm vào “hư không vô biên” ấy. Nhưng đến khi xả thiền, đi vào xóm
làng khất thực, Tất Đạt Đa thấy mình vẫn không được chuyển hóa. Tâm trí người vẫn
còn nguyên những câu hỏi, những khát vọng chưa được thỏa mãn... vẫn còn dính mắc
trong sinh tử. An trú trong định đấy, người vẫn chưa thấy được con đường giải
thoát thật sự.
Tất Đạt Đa trở
lại với A-la-la Ca-lam và trình bày tri kiến của mình. Đạo sư khuyên người rằng:
“Con phải bước lên thêm một nấc nữa”, “Cái hư không vô biên mà con đạt tới đó,
nó cũng cùng một chất liệu với tâm thức con. Nó không phải là đối tượng của tâm
thức con mà nó chính là tâm thức con. Vậy con hãy nỗ lực mà đạt cho được trạng
thái thiền định kế tiếp là “thức vô biên xứ”.”
Khi hiểu rằng
tâm thức chính là điều tạo nên hư không vô biên, thì thức cũng sẽ trở thành vô
biên. Vì hiểu biết của chúng ta nương theo hư không, nên hư không tới đâu, hiểu
biết của ta tới đó. Vì thế, một vị đạo sư ngồi một nơi nhưng trí tuệ rọi khắp
mười phương thì hiểu biết của họ đi khắp mười phương, điều này gọi là “Thức vô
biên xứ”.
Tất Đạt Đa trở
về góc rừng của mình. Chỉ trong vòng hai hôm, người thực hiện được thiền thức
vô biên xứ. Người thấy được tâm thức mình trong một hiện tượng vũ trụ. Dù vậy,
người vẫn không thấy những sầu đau và thao thức của mình được giải quyết.
Tất Đạt Đa trở
về với vị đạo sĩ và trình bày vướng mắc của mình. Đạo sĩ A-la-la Ca-lam nói:
“Con đã đi gần tới đích. Hãy trở về quán chiếu về tính cách hư giả - không thật
của vạn pháp - tức tất cả những gì mà ý thức có thể cảm nhận được. Mọi hiện tượng
trong vũ trụ đều do tâm thức ta tạo nên. Hình sắc, âm thanh, hương, vị, và những
xúc chạm, nóng lạnh, cứng mềm đều là những sáng tạo của tâm thức. Phải đạt cho
được cảnh giới “vô sở hữu xứ” thì con sẽ thành công. “Vô sở hữu xứ” là cảnh giới
trong đó ta thấy được rằng không có một hiện tượng nào thật sự hiện hữu như tri
giác của ta tưởng.”
Trong khoảng
thời gian chưa đầy một tháng, Tất Đạt Đa đã thực hiện được định “vô sở hữu xứ”,
không còn dính mắc với bất cứ điều gì. Tuy nhiên, cũng như những bậc thiền
khác, đến lúc trở về với cảm giác thông thường thì mọi thao thức, trăn trở về
chuyện sống chết, vẫn còn y nguyên trong Tất Đạt Đa.
Nhưng giờ
đây, người đã đến bậc thiền cao nhất mà đạo sư A-la-la Ca-lam đạt được. Đạo sư
mời Tất Đạt Đa ở lại để dìu dắt giáo đoàn tu sĩ. Nhưng người từ chối, vì “vô sở
hữu xứ” tuy là một hoa trái quý giá của sự tu học nhưng không giải quyết được vấn
đề sinh tử, không giải phóng được người khỏi những sầu đau và thao thức căn bản,
không đưa người đến chỗ giác ngộ hoàn toàn.
Sau đấy, nhờ
các thiền sư khác mách bảo, Tất Đạt Đa tìm tới đạo tràng của đạo sĩ Uất-đầu-lam-phất
để học về tầng thiền cao hơn của “vô sở hữu xứ”. Đạo sĩ chia sẻ với Tất Đạt Đa
rằng trong “vô sở hữu xứ” chỉ còn lại tri giác - tức nhận biết qua 5 giác quan
là thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm. Nhưng tri giác cũng là tưởng, mà còn tưởng
tức là còn đối tượng của tưởng, còn tri giác là còn đối tượng của tri giác. Vậy
thì con đường giải thoát là vượt được tri giác.
Đó chính là
trạng thái “phi tưởng phi phi tưởng”. Đây là trạng thái mà tâm thức ngưng động,
mọi quan sát gần như dừng hẳn. Tâm quan sát vẫn có mặt, nhưng ở một mức độ vi tế
đến nỗi người thiền hành không còn “tưởng”, cũng không còn “không tưởng”. Để đạt
được trạng thái này, người phải hoàn toàn buông bỏ cái ngã - cái tôi của mình,
buông bỏ tất cả mọi chấp kiến về ngã, về hiện tại là ai, sẽ là ai, hay có thể
là ai.
Trạng thái
này Tất Đạt Đa cũng sớm đạt được. “Phi tưởng phi phi tưởng” làm cho người cảm
tưởng đạt tới một cảnh giới của nhận thức vượt ra ngoài mọi nhận thức thông thường,
nhưng mỗi khi ra khỏi thiền định, người thấy cái nhận thức phi thường vẫn không
thay đổi được tình trạng của thực tại sinh tử. Định ấy chỉ là một nơi trú ẩn mà
không phải là một chìa khóa mở cửa thực tại.
Vì dù có đạt
đến trạng thái ấy thì khi vẫn không thể tách rời hoàn toàn khỏi cái tôi, khỏi cảm
giác và tri giác, mà đã có những điều này thì vẫn có cảm xúc, vẫn vướng mắc với
sinh tử.
Cũng như lần
trước, khi đã đến tầng “phi tưởng phi phi tưởng”, Tất Đạt Đa cũng được đạo sư mời
ở lại, cùng cai quản giáo phái. Nhưng người một lần nữa ngỏ lời khéo léo để từ
giã, vì với người đây cũng không phải là con đường giải thoát.
6 năm khổ hạnh
Sau 5 năm tầm
đạo, Tất Đạt Đa nhận thấy rằng có đi tham vấn bao nhiêu vị đạo sư đi nữa thì
cũng không học hỏi thêm được điều gì đáng kể. Người quyết định trở về tìm kiếm
chìa khóa giác ngộ ngay trong tự tâm mình. Hướng về phía Tây, Tất Đạt Đa vượt
qua những cánh đồng lúa, những vũng bùn lầy lội, những đầm nước đọng và những
dòng suối đục ngầu để đến vùng Uruvela, nơi chốn với nhiều hang động.
Tất Đạt Đa
quyết định lưu lại đây một thời gian, trú tại một hang động, để tìm cho ra nẻo
thoát.
Lúc trước, Tất
Đạt Đa đã gặp những người tu theo phái khổ hạnh - những người này không nhận thức
ăn cúng dường của nhân gian mà chỉ ăn rễ cây, đọt cây và trái rừng. Họ để cho nắng
gió và mưa bão hành hạ xác thân. Tất Đạt Đa từng cho rằng hành hạ xác thân như
thế chỉ gây thêm khổ đau, trong khi cuộc đời đã có nhiều đau khổ rồi. Nhưng giờ
đây, người muốn xét lại điều ấy một cách kỹ lưỡng hơn. Ngồi trong hang đá, người
tự bảo với lòng: “Với một miếng gỗ mềm và ướt thì ta không thể nào cọ xát làm
cho lửa phát sinh được. Thân thể ta cũng vậy, nếu thân thể ta còn bị vật dục khống
chế thì tâm ta khó có thể đạt tới giải thoát. Ta hãy tìm cách chế ngự thân thể
ta xem sao.”
Ngày tháng
qua đi, sau 6 năm, thân thể người đã hao gầy đi rất nhiều. Có lúc thậm chí, Tất
Đạt Đa bỏ luôn cả việc tắm rửa, chỉ ăn một trái ổi thối lượm được. Thân hình
người trở nên tiều tuỵ, chỉ còn da bọc lấy xương. Bao nhiêu xương sườn của người
đều lộ rõ ra. Có khi người đưa tay lên sờ đầu và thấy tóc rụng xuống từng mảng.
6 năm khổ hạnh
của Tất Đạt Đa
Cho đến một
hôm, ngồi thiền định trong bãi tha ma dưới chân núi, Tất Đạt Đa bừng tỉnh, thấy
được rằng con đường khổ hạnh là con đường sai lầm. Người nhận ra rằng thân và
tâm là một thực thể không thể tách rời, và sự an lạc của thân có liên hệ tới sự
an lạc của tâm. Hành hạ xác thân vì vậy cũng là hành hạ tâm trí.
Ký ức của Tất
Đạt Đa trở về thời niên thiếu, hồi người mới lên chín tuổi, khi lần đầu tiên
người ngồi yên lặng dưới bóng mát cây hồng táo trong ngày lễ cày ruộng đầu năm.
Cảm giác hồi ấy là một cảm giác an lạc, làm cho người tỉnh táo và sáng suốt lạ
thường.
Tất Đạt Đa
cũng nhớ lại lúc người ngồi tập thiền lần đầu tiên trong rừng ngay khi vừa từ
giã người hầu cận Xa Nặc, và những ngày đầu khi tập thiền với đạo sư A-la-la
Ca-lam: Lúc đấy, người nhận thấy sự an lạc mà thiền đem lại. Người nhớ sau đó
nghe lời đạo sĩ A-la-la Ca-lam, người phải bỏ pháp lạc trong thiền để đạt tới
những trạng thái thiền định trong cõi vô sắc như "không vô biên xứ",
"thức vô biên xứ", "vô sở hữu xứ", và "phi tưởng phi
phi tưởng xứ". Những trạng thái này luôn luôn tìm cách tách người rời khỏi
cảm giác và tri giác.
Giờ đây, Tất
Đạt Đa bỗng nhận ra rằng những an lạc ấy không dính líu với năm loại dục lạc về
tiền bạc, sắc đẹp, hay địa vị,... Trái lại, an lạc ấy có thể có thể nuôi dưỡng
hình hài và tâm hồn để mỗi người có đủ sức mạnh mà đi xa trên đường giác ngộ.
Việc tự hành
xác trong rừng rậm, cũng giống như tận hưởng dục lạc nơi cung điện, đều không
phải là con đường giải thoát. Muốn tìm ra chân lý, Tất Đạt Đa nhận ra mình phải
đi theo con đường trung đạo, không nên hưởng thụ quá và cũng không nên khổ hạnh
quá. Nói cách khác, con đường này không giúp loại bỏ những khổ hạnh, dục lạc mà
giúp chúng ta biết cách kiềm chế, vượt lên những bản năng cơ bản của con người.
Người quyết định
ngừng lối sống khổ hạnh, bỏ hang động, dời về khu rừng êm mát bên bờ sông để
hành đạo.
Con đường
giác ngộ
Ngồi dưới gốc
cây bồ đề, Tất Đạt Đa tập trung hết định lực và quán chiếu vào nội thân. Người
cương quyết phát nguyện rằng: “Nếu ta không đạt được đạo quả, cho dù phải bỏ mạng
tại đây, ta cũng sẽ không rời khỏi nơi này!”.
Truyền thuyết
kể rằng, Thiên Ma Ba Tuần - vốn đại diện cho mong muốn nhục dục - không muốn Tất
Đạt Đa giác ngộ. Vì nếu người tìm ra con đường chấm dứt khổ đau thì sức mạnh của
Thiên ma sẽ bị tổn thất.
Để ngăn cản
điều này, Thiên Ma Ba Tuần tạo ra một trận bão khủng khiếp và phóng những tia sấm
sét xuống quanh Tất Đạt Đa. Thế nhưng bên dưới những nhánh cây, mọi thứ vẫn yên
lặng. Nó được che chở bởi năng lực thiền định của người.
Thấy rằng trận
bão vừa qua đã không đạt kết quả, Thiên Ma Ba Tuần quay sang ra lệnh cho lũ đệ
tử tấn công. Toàn thể lũ yêu ma độc ác quay lại tấn công Tất đạt đa. Chúng chạy
đến chỗ người la hét dữ dội. Chúng bắn những mũi tên độc căm thù đến người.
Song, những mũi tên này khi bay tới chỗ Tất Đạt Đa lại biến thành những cánh
hoa sen và rơi xuống vô hại cạnh bên chân người.
Thiên Ma nghĩ
nếu vũ khí không làm hại được Tất Đạt Đa, vậy hãy sử dụng sắc dục để quấy nhiễu
tâm trí người. Tất cả lũ yêu ma biến thành những cô gái đẹp nhất và quyến rũ nhất.
Những cô gái hấp dẫn này khiêu vũ phía trước người, nhưng cũng không ảnh hưởng
gì đến sự thiền định của người.
Cảm thấy thất
bại, Thiên Ma Ba Tuần xuất chiêu cuối cùng, chế giễu Tất Đạt Đa rằng: “Có biết
bao vĩ nhân đã bỏ cuộc khi đi tìm chân lý, ông nghĩ rằng mình sẽ thành công ư?
Hãy từ bỏ việc thiền định này đi, hoặc ít nhất cũng cho ta thấy bằng chứng là
ông sẽ thành công?”
Những lời nói
này không làm phiền đến Tất Đạt Đa. Người im lặng nhấc tay phải khỏi lòng bàn
chân, đưa ra phía trước và đụng xuống đất. Chính mặt đất này là nhân chứng của
Người.
Đã vô số kiếp
người xuất hiện trên mặt đất này với nhiều hình dạng khác nhau. Qua mỗi kiếp sống,
Tất Đạt Đa đã thực tập lòng khoan dung và tính kiên nhẫn, người đã thực hành
yêu thương và tránh làm hại kẻ khác, người đã tập trung cho việc tìm chân lý.
Người đã làm tất cả những việc này. Khi thì người là nam, khi là nữ, khi là người
giàu, khi là kẻ nghèo - đã nhiều kiếp qua, người làm những việc này chỉ vì mục
đích khám phá ra con đường chấm dứt tất cả khổ đau. Chính trái đất này là nhân
chứng của người.
Thiên Ma biết
mình đã thất bại, tan biến như một cơn gió.
Thiên Ma Ba
Tuần quấy nhiễu Tất Đạt Đa
Sau khi Thiên
Ma rời đi, dần dần tâm trí của Tất Đạt Đa trở nên yên lặng và êm dịu. Sự tập
trung của người càng sâu thêm và tâm trí càng sáng hơn.
Nhờ đó, người
đã nhìn thấy những kiếp quá khứ. Người thấy rằng khi một đời sống này chấm dứt
thì đời sống khác bắt đầu. Chết chỉ là một sự chấm dứt của thể xác, đời sống lại
tiếp tục tìm kiếm một thân xác mới và cứ tiếp diễn mãi như vậy. Người cũng
trông thấy được tất cả những sinh diệt của mình trong các kiếp quá khứ. Người
thấy mỗi tế bào trong cơ thể mình chứa đựng được tất cả vũ trụ, cũng chứa đựng
cả thời gian từ hư vô đến vô tận. Cái thấy ấy là túc mệnh minh - thấy được sự
có mặt của muôn loài chúng sinh ngay trong chính tự thân. Người chứng đạt được
trí tuệ này vào cuối canh một đêm ấy.
Khi người
khám phá ra tất cả đời sống liên kết nhân quả mật thiết với nhau như vậy, chân
lý dần xuất hiện. Mặt trời, những hành tinh, tất cả các ngôi sao và những thiên
hà của vũ trụ, tất cả đều xuất hiện trong thiền định của người. Tất Đạt Đa thấy
mọi thứ, từ hạt bụi nhỏ nhất đến ngôi sao lớn nhất đều liên kết với nhau. Mọi vật
thì luôn luôn thay đổi: thành, hoại và thành, cứ tiếp tục như thế. Nhưng kỳ thực
những co giãn, sinh diệt và thành hoại ấy chỉ là những biểu hiện bề ngoài, chưa
từng đụng tới thực tướng của tất cả sự vật trong vũ trụ.
Cái thấy này
vượt lên lưới sinh tử, đó là một cái thấy vi diệu, là lậu tận minh - tức hiểu bản
chất của sinh diệt chỉ là chuyện thường tình, không thể thay đổi được cốt lõi của
vũ trụ. Tất Đạt Đa đã đạt tới cái thấy ấy vào cuối canh hai.
Tiếp tục rọi
ánh sáng vào cõi tâm, người thấy rõ tất cả những khổ đau của cuộc đời. Người thấy
rằng từ sinh vật nhỏ nhất đến ông vua vĩ đại nhất đều chạy theo lạc thú để rồi
kết thúc với những bất hạnh. Và người cũng khám phá ra nguyên nhân của tất cả
những bất hạnh ấy. Người thấy rằng người ta không thật sự hiểu rõ mọi sự vật
luôn luôn thay đổi. Do sự mù quáng này mà họ đấu tranh, cướp bóc và giết hại để
thỏa mãn những dục vọng của mình, nhưng những ham muốn này không bao giờ đem lại
hạnh phúc lâu dài cho họ. Họ cứ mãi quanh quẩn trong vòng được mất, rồi lại tìm
kiếm.
Tất Đạt Đa nhận
ra khi biết tìm cách tĩnh tâm để nhìn lại, để quán chiếu sâu sắc vào lòng sự vật
thì người đạt tới sự hiểu biết. Sự hiểu biết này làm tiêu tán được mọi phiền
não, và làm phát sinh sự chấp nhận và niềm tin yêu. Người khám phá ra rằng hiểu
biết và thương yêu là một và nếu không thể hiểu biết thì không thể thương yêu.
Khi có hiểu
biết, người nhận thức được hoàn cảnh xã hội hiện hành khiến có những người cư xử
độc ác. Hiểu được rồi thì thay vì oán giận, Tất Đạt Đa chỉ có xót thương. Có
xót thương thì người mới hành động để chuyển hóa mỗi con người và chuyển hóa
hoàn cảnh. Con đường mà Tất Đạt Đa tìm ra là con đường hiểu biết để xót thương
và hành động.
Mà muốn đạt tới
hiểu biết, Tất Đạt Đa phải sống thức tỉnh trong từng giây từng phút, thức tỉnh
để tiếp xúc, để nhận diện và để nhìn thấy những gì đang xảy ra trong người và
chung quanh người. Cái nhìn ấy càng ngày sẽ càng sâu sắc, và khi nhìn sâu được
vào lòng một hiện tượng thì hiện tượng đó sẽ phơi bày chân tướng rõ ràng. Đó là
bí quyết của chánh niệm - hiểu rõ những gì đang có mặt, đang xảy ra.
Khi đã có
chánh niệm, Tất Đạt Đa thấy mình được soi sáng bởi cái nhìn chân thực (chánh kiến),
suy tư chân thực (chánh tư duy), lời nói chân thực (chánh ngữ), hành động chân
chính (chánh nghiệp), sự cố gắng đi về đường chính (chánh tinh tiến) và sử dụng
đúng pháp những trạng thái thiền định về mục đích giải thoát (chánh định). Con
đường này được người gọi là bát chánh đạo. Đây cũng là con đường mà Tất Đạt Đa
hướng đến cho nhân gian, để thực hiện giải thoát và giác ngộ.
Khi đó, Tất Đạt
Đa đã chứng được tha tâm minh - tức nhìn thấu vào tâm niệm của mọi loài chúng
sinh. Cùng một lúc người đạt tới thiên nhãn minh - tức tuệ giác sáng suốt biết
rõ các kiếp sống của mình và của tất cả chúng sinh, thiên nhĩ minh - tức khả
năng nghe được mọi thứ tiếng của chúng sinh; và thần túc minh - tức thấy được
nghiệp nhân quả của tất cả chúng sinh trong nhiều đời nhiều kiếp. Lúc ấy, trời
đã cuối canh ba.
Tất Đạt Đa có
cảm giác cái nhà tù thường giam hãm con người trong ngàn vạn kiếp đã vừa bị phá
tung. Những chấp niệm của tâm thức làm một người phân biệt giữa có và không,
còn và mất. Từ sự phân biệt ấy phát sinh ra những khát khao hạnh phúc, dục vọng,
luyến ái, nghiệp báo, để rồi càng vướng chấp vào sinh-lão-bệnh-tử. Vô minh - tức
nhận thức sai lầm về cái tôi và thế giới xung quanh - cũng càng ngày càng sâu nặng,
và bốn bức tường của cái nhà tù càng ngày càng thêm vững chắc. Chỉ có một cách
giải thoát mà thôi: đó là nắm lấy người chủ ngục và khám phá chân tướng nó. Người
chủ ngục ấy là vô minh. Phương pháp giải trừ vô minh là con đường bát chánh đạo.
Tất Đạt Đa biết
rằng đạo lớn đã được tìm ra, và hoài bão của người đã đạt được. Giờ đây, người
đã trở thành Đức Phật.
Tất Đạt Đa
giác ngộ dưới gốc cây bồ đề
Tạm kết
Theo lời Phật
dạy trong kinh Phạm võng, kinh Niết-bàn... thì “Tất cả chúng sinh đều có Phật
tính và đều có khả năng thành Phật. Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sinh là
Phật sẽ thành”. Điều này có nghĩa là trong mỗi người đều có Phật tính, ai cũng
có thể trở thành Phật nhưng tiềm năng ấy đang bị che lấp bởi vô minh. Câu chuyện
giác ngộ của Đức Phật cũng cho thấy rằng thực hành Phật giáo là nhằm giúp mỗi
người hiểu được những ham muốn dục vọng của bản thân, để giác ngộ và đạt đến trạng
thái chánh niệm.
Như vua Trần
Thái Tông đã nói rằng: "Núi vốn không có Phật. Phật ở nơi tâm. Tâm lặng lẽ
sáng suốt ấy là chân Phật". Mong rằng câu chuyện này cũng có thể cho bạn
những gợi dẫn để tìm ra “Phật tính” ở ngay chính bản thân mình.





0 Nhận xét